Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

1

Giám định là việc người giám định sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định, theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Luật Giám định tư pháp năm 2012 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, để có kết luận giám định được tiến hành bằng hai hình thức gồm: Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định. Trưng cầu giám định chỉ do Tòa án, người tiến hành tố tụng thực hiện. Còn yêu cầu giám định là quyền của đương sự sau khi đã đề nghị Tòa án, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận.
Kết luận giám định là nhận xét, đánh giá bằng văn bản của người giám định về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định, được coi là chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do luật quy định. Trong thực tiễn các vụ việc dân sự có rất nhiều các trường hợp cần phải trưng cầu giám định như: giám định AND (xác nhận cha, mẹ, con); giám định chữ ký (hợp đồng, thừa kế); giám định thương tích (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)… thì kết luận giám định có tính chất quyết định đối với phán quyết của Tòa án. Kế thừa và phát triển các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011) Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 với những sửa đổi cơ bản về nguồn chứng cứ và thủ tục thu thập chứng cứ để đánh giá tính hợp pháp của kết luận giám định. Mà theo đó, việc trưng cầu giám định, yêu cầu giám định Điều 102 BLTTDS năm 2015, có quy định như sau:
“1. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
2. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
3. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa, phiên họp để trực tiếp trình bày về các nội dung cần thiết.
4. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó.
5. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.”
So với quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) về trưng cầu giám định, tại Điều 90 của Bộ luật này chỉ quy định về trưng cầu giám định, mà không đề cập đến trường hợp quyền tự yêu cầu giám định của đương sự. Mà theo đó, tại khoản 3 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012 1uy định: “Người yêu cầu giám định là người có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận. Người có quyền tự mình yêu cầu giám định bao gồm đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”. Để phù hợp với Luật giám định tư pháp năm 2012, ngoài việc đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định như BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 còn quy định, khi đương sự đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự thì đương sự có thể yêu cầu giám định. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Mục đích của biện pháp này là trưng cầu ý kiến thẩm định của các chuyên gia, các nhà khoa học trên các lĩnh vực chuyên ngành để thẩm định tính đúng đắn, chân thực của các chứng cứ do các đương sự cung cấp, góp phần giúp thẩm phán có thể nhận định đúng và đưa ra quan điểm chính xác đối với vụ án. Đây là bước tiến đáng kể trong hoạt động tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ hóa hoạt động tố tụng, góp phần mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định liên quan đến trưng cầu giám định, yêu cầu giám định của BLTTDS năm 2015, cũng như thực tiễn áp dụng phát sinh những vướng mắc, khó khăn việc thu thập chứng cứ là kết luận giám định, như chưa quy định rõ giới hạn thời hạn giám định; giám định tối đa mấy lần trong một vụ án; chưa có cơ chế giải quyết khi có nhiều kết luận giám định mâu thuẫn nhau; pháp luật bỏ ngỏ chế tài áp dụng đối với đương sự không chấp hành quyết định về trưng cầu giám định của Tòa án; cơ sở pháp lý nào để chứng minh việc đương sự thực hiện quyền tự yêu cầu giám định của đương sự, nếu Tòa án từ chối cung cấp;…
Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định về cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau ở chủ thể yêu cầu. Trưng cầu giám định là việc Tòa án, Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám định. Yêu cầu giám định là đương sự yêu cầu cơ quan tổ chức tiến hành hoạt động giám định theo quy định của Luật giám định tư pháp. Nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự của một số nước, có thể nói quy định về bổ sung thẩm quyền của Tòa án được quyền ban hành quyết định trưng cầu giám định khi đương sự không yêu cầu nhưng Tòa án xét thấy cần thiết ở Việt Nam có sự tương đồng so với một số nước. Tham khảo quy định tại Điều 79 BLTTDS Liên bang Nga: “Trong trường hợp phát sinh vấn đề cần kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, thủ công thì Tòa án trưng cầu giám định. Việc giám định có thể do cơ quan giám định tư pháp, một hoặc nhiều người giám định khác thực hiện”. Theo quy định tại Điều 232 BLTTDS của Cộng hòa Pháp: “Thẩm phán có thể ủy thác cho bất kỳ người nào do mình lựa chọn để giúp Thẩm phán làm sáng tỏ vụ việc thông qua việc xác nhận, tư vấn hoặc giám định về một vấn đề thực tiễn đòi hỏi phải có sự hiểu biết của kỹ thuật viên”. Bên cạnh đó, Điều 263 của Bộ luật này quy định: “Thẩm phán chỉ quyết định trưng cầu giám định khi biện pháp trưng cầu xác nhận hoặc ý kiến tư vấn của chuyên gia không đủ làm sáng tỏ vấn đề mà Thẩm phán cần giải quyết”. Các quy định về trưng cầu giám định trong BLTTDS của Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp đều được thiết kế theo hướng dành quyền chủ động cho Thẩm phán nhằm xác định những thông tin xác thực liên quan đến kiến thức chuyên môn.
Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã dung hòa điều kiện áp dụng bên cạnh việc trao quyền cho đương sự thì trong những trường hợp cần thiết đảm bảo tính đúng đắn cho việc giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án được quyền chủ động áp dụng. Cụ thể, Điều 102 BLTTDS năm 2015, hoạt động giám định trong tố tụng dân sự có thể tiến hành trong các trường hợp sau: Các đương sự thỏa thuận lựa chọn biện pháp giám định và yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định; một trong các bên đương sự yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định; trong trường hợp Tòa án từ chối trưng cầu giám định thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định.
Theo sự thỏa thuận của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải được thể hiện bằng văn bản, có thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất… Thẩm phán căn cứ vào quy định của BLTTDS, Luật Giám định tư pháp 2012 để tiến hành trưng cầu giám định.
Trong trường hợp Tòa án từ chối trưng cầu giám định thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật Giám định tư pháp năm 2012: “Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định”. Căn cứ vào quy định này, trong vụ án dân sự, đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thụ lý vụ án trưng cầu giám định và nếu trong trường hợp Tòa án từ chối trưng cầu giám định thì đương sự có quyền tự yêu cầu giám định. Như vậy, điều kiện để đương sự thực hiện quyền tự giám định trong vụ việc dân sự là Tòa án thụ lý vụ án từ chối trưng cầu giám định và việc thực hiện quyền phải trong thời hạn trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, tức là trong thời gian chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1[1] Điều 203 BLTTDS năm 2015. Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự nói chung được tính từ khi vụ kiện chính thức được Tòa án thụ lý cho đến khi phiên tòa xét xử vụ án đó được khai mạc. Ví dụ, vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ giữa nguyên đơn Công ty Cổ phần Tập đoàn A và bị đơn chủ doanh nghiệp B, được TAND tỉnh T thụ lý ngày 20/6/2016. Như vậy, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 thì vụ kiện phải được Tòa án đưa ra xét xử trong vòng 02 tháng, tức chậm nhất ngày 20/8/2016. Theo quy định tại khoản 4 Điều 203 BLTTDS năm 2015: “ Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.”.Nghĩa là chậm nhất ngày 20/7/2016 Tòa án phải có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, trước đó ngày 10/7/2016, nguyên đơn có văn bản gửi đến TAND tỉnh T đề nghị trưng cầu giám định thiệt hại mà Công ty phải gánh chịu do hành vi doanh nghiệp B tự ý sử dụng logo của sản phẩm sữa đậu nành “Trường Thọ” trên thị trường, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng đã làm giảm uy tín, giảm doanh thu sản phẩm bán ra trên thị trường của Công ty. Đến ngày 15/72016 TAND tỉnh T ban hành văn bản với nội dung từ chối đề nghị về việc trưng cầu giám định của Công ty Cổ phần Tập đoàn A. và văn bản này Công ty Cổ phần Tập đoàn A nhận vào lúc 10 giờ 21 phút ngày 19/7/2016 (theo dấu bưu điện). Vấn đề đặt ra, ngày 20/7/2016 Công ty Cô phần Tập đoàn A thực hiện quyền tự mình yêu cầu giám định thiệt hại và đó cũng là ngày TAND tỉnh T quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vậy, trường hợp này Tòa án có chấp nhận đơn xin gia hạn thời hạn xét xử để chờ kết quả giám định không? Bởi theo quy định tại khoản 4 Điều 203 BLTTDS năm 2015:… trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn mở phiên tòa là 02 tháng. Nhưng lý do nào được coi là chính đáng, lại hoàn toàn phụ thuộc ý chí chủ quan của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên giải quyết vụ án đó. Trước đây, khi hướng dẫn quy định tại khoản 3 Điều 179 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), tại điểm c khoản 3 Điều 14 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTp ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, có giải thích: “Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có tính chất phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến,… nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định. Nếu căn cứ vào hướng dẫn này, Tòa án từ chối đề nghị gia hạn thời hạn mở phiên tòa của Công ty Cô phần Tập đoàn A là không sai, nhưng điều đó liệu có phù hợp với quy định: “Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ…” theo khoản 3 Điều 6 BLTTDS năm 2015 không?
Mặt khác, Kết luận giám định mà phía nguyên đơn chuyển đến Tòa có liệu được chấp nhận không? Vì như đã lý giải, việc yêu cầu giám định của phía nguyên đơn không được thực hiện trước khi TAND tỉnh T ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, vì hoàn toàn do khách quan chi phối.
Ngoài ra, các chủ thể còn có quyền trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại. Người trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người yêu cầu giám định quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do. Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Giám định tư pháp năm 2012, việc giám định bổ sung được thực hiện trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó. Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu. Giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác hoặc trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.
Vấn đề đặt ra, nếu đương sự cho rằng kết luận giám định mà Tòa án trưng cầu giám định chưa rõ ràng, chưa đầy đủ và đề nghị Tòa án trưng cầu giám định bổ sung, nhưng bị từ chối thì đương sự đó có quyền tự mình yêu cầu giám định bổ sung không? Hoặc sau khi có kết luận giám định bổ sung hoặc giám định lại mà các kết quả của những lần giám định đó là khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau thì Tòa án sử dụng kết quả giám định nào (kết quả giám định lần đầu hay kết quả giám định lại) để làm căn cứ giải quyết. Với trường hợp kết quả giám định xung đột, ý kiến của nhiều chuyên gia cho rằng giám định là ngành khoa học đặc thù nên kết luận khác nhau là điều dễ chấp nhận, bởi tùy thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (thời gian, mẫu vật…), giám định viên tự chịu trách nhiệm về kết luận của mình. Còn việc xem xét tính đúng đắn, xác thực của kết luận giám định là quyền hạn, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án đó. Như vậy, với trường hợp một vụ án có nhiều kết luận giám định mà cho rằng tất cả… đều đúng về mặt khoa học, còn lựa chọn kết quả nào là thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan tố tụng thì chẳng khác nào “đánh đố” Hội đồng xét xử. Có những vụ án mà kết luận giám định sẽ là chứng cứ mấu chốt, quan trọng nhất để xác định cha cho con Tòa án “bí”, không có được những chứng cứ khác nên mới phải trưng cầu giám định để tìm ra sự thật. Các tổ chức giám định tư pháp cho ra nhiều kết luận mâu thuẫn, trái ngược nhau mà khẳng định cái nào cũng đúng về mặt khoa học là không ổn. Trong trường hợp có hai kết quả giám định mâu thuẫn, việc đánh giá, lựa chọn kết quả nào cần hết sức thận trọng và phải áp dụng các biện pháp tố tụng hoặc nghiệp vụ khác để xác định giá trị của các kết luận. Trước hết phải trưng cầu giám định lại lần thứ ba để kiểm tra hai kết quả giám định trước. Có những trường hợp giám định nhiều lần cho nhiều kết quả khác nhau. Như vậy, để đánh giá chính xác phải trưng cầu ý kiến chuyên gia để xem xét tính khoa học của từng quá trình giám định và kết luận giám định. Thậm chí phải triệu tập giám định viên trực tiếp giải trình về trình tự giám định, phương pháp giám định và kết quả giám định. Nếu cần thiết, có thể triệu tập cả hai giám định viên có kết luận khác nhau để họ cùng trình bày, tranh luận khoa học với nhau về phương pháp giám định, kết luận giám định của mình thì mới có cơ sở đánh giá đúng đắn, khách quan.
Nhưng theo quy định tại khoản 5 Điều 102 BLTTDS năm 2015 quy định việc giám định lại được thực hiện trong những trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật. Vậy, nếu đương sự đưa ra được lý do để chứng minh kết luận giám định lại cũng không chính xác, thì Tòa án có chấp nhận cho họ có quyền yêu cầu giám định tại một tổ chức giám định độc lập khác không? Đây cũng là vấn đề đặt ra từ thực tiễn mà hiện BLTTDS năm 2015 chưa có quy định cụ thể. Về bản chất, kết luận giám định trong tố tụng dân sự là một nguồn chứng cứ, Tòa án xem xét, đánh giá và sử dụng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nên việc có giám định lại hay không hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Tòa án quyết định trong trường hợp cần thiết. Đương sự có quyền đề nghị, nhưng việc quyết định trưng cầu giám định lại thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trường hợp người yêu cầu giám định không nhất trí với kết luận giám định thì có quyền đề nghị hoặc khiếu nại theo quy định của pháp luật tố tụng.
Qua thực tiễn xét xử, do tính chất đặc thù của một số vụ án (ví dụ: Vụ án xác định cha, mẹ, con…), kết luận giám định được xác định là căn cứ mấu chốt và quyết định để chứng minh cho yêu cầu hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, trong nhiều vụ án, khi nguyên đơn yêu cầu trưng cầu giám định ADN, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định. Bị đơn (người bị kiện để xác định là cha hoặc mẹ đứa trẻ…) đã từ chối không chấp nhận đi giám định ADN. Vấn đề đặt ra là, theo nguyên tắc bất khả xâm phạm và nguyên tắc chấp thuận của cá nhân được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự thì Tòa án hoặc cơ quan chuyên môn không thể lấy mẫu xét nghiệm (máu, tóc…) từ cơ thể người bị yêu cầu để xét nghiệm nếu người bị yêu cầu không tự nguyện và không đồng ý. Đây chính là quy định mâu thuẫn giữa các quyền dân sự và quyền tố tụng mà việc giải quyết nó không hề đơn giản. Dưới góc độ tố tụng dân sự, trường hợp này đến BLTTDS năm 2015 vẫn bỏ ngỏ chưa được quy định trong luật dẫn đến nhiều vụ án xác định cha, mẹ, con thiếu cơ sở khoa học cũng như cơ sở pháp lý để giải quyết khi không có kết quả giám định gen. Thực tiễn giải quyết án dân sự cho thấy, do không có quy định bắt buộc đương sự phải cung cấp mẫu giám định, cũng không có quy định cho phép Tòa ra lệnh cưỡng chế nếu đương sự không hợp tác. Vì vậy, dù khâu giám định bế tắc khiến việc giải quyết án gặp khó khăn, bị kéo dài, Tòa án cũng không biết phải làm sao. Nếu để vụ án phải kéo dài mãi là không được mà đưa ra xét xử thì cũng không ổn vì sự thật chưa được làm rõ. Do đó, cần bổ sung chế định bắt buộc đương sự phải hợp tác với cơ quan tố tụng trong việc giám định nhằm làm rõ sự thật của vụ án. Trong khi đó, hiện cũng chưa có quy định về hành vi bị coi là vi phạm và bị xử phạt hành chính nếu đương sự cố tình không hợp tác với cơ quan tố tụng trong việc thu thập cung cấp mẫu vật (tóc, máu) gửi đi giám định.
Qua nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự của nước ngoài, kết hợp với thực tế tại Việt Nam, tác giả cho rằng, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần thiết có hướng dẫn cụ thể về hậu quả pháp lý của việc đương sự từ chối thực hiện quyết định trưng cầu giám định của Tòa án để tháo gỡ những bế tắc trong việc giải quyết một số loại án đặc thù hiện nay, cụ thể: Trong trường hợp một bên trốn tránh việc tiến hành giám định, không hợp tác trong việc cung cấp tài liệu cần thiết cho người giám định, hoặc trong những trường hợp không có sự tham gia của một bên thì việc giám định không thể tiến hành được cũng như việc giám định có ý nghĩa đối với bên đó thì Tòa án có quyền thừa nhận sự kiện cần phải trưng cầu giám định là được khẳng định hoặc bị bác bỏ.
Với quy định của BLTTDS hiện hành giám định trong tố tụng dân sự có thể được tiến hành với hai phương thức là trưng cầu giám định và yêu cầu giám định. Khi đối chiếu hai quy định trên thì khi yêu cầu giám định đương sự phải chứng minh mình đã bị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối trưng cầu giám định. Vấn đề đặt ra là đương sự phải chứng minh như thế nào nếu người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng từ chối không bằng văn bản. Mặt khác, thời hạn giám định của đương sự cũng bị hạn chế khi “chỉ được yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”, vậy các trường hợp chứng cứ mới xuất trình ở cấp phúc thẩm mà đương sự đã không thể biết ở cấp sơ thẩm vì có lý do khách quan, chính đáng và có nghi ngờ về tính xác thực của các chứng cứ này thì đương sự có được thực hiện quyền yêu cầu giám định khi Tòa án từ chối trưng cầu giám định hay không?
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Giám định tư pháp năm 2012, hoạt động giám định phải được tiến hành một cách “trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời”. Khi tiến hành giám định cần phải lấy mẫu so sánh kèm theo đối tượng giám định. Vậy hoạt động lấy mẫu giám định cần phải tiến hành như thế nào để đạt được sự chính xác, khách quan. Nếu một người được yêu cầu cung cấp mẫu giám định nhưng họ phản đối, không cung cấp thì Tòa án, người yêu cầu hoặc người giám định có được áp dụng các biện pháp cưỡng chế để lấy mẫu hay không? Hoặc không biết bằng cách nào mà họ có được mẫu kể cả việc lén lút lấy mẫu để tiến hành giám định. Kết quả giám định cuối cùng cho thấy mẫu giám định và đối tượng giám định là giống nhau, nhưng liệu rằng kết quả này có được Tòa án chấp nhận khi mà người bị lấy mẫu kịch liệt phản đối? Do Luật giám định tư pháp vẫn chưa có quy định nào liên quan đến việc lấy mẫu giám định, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả giám định. Bên cạnh đó, quy định sửa đổi bổ sung về trưng cầu giám định, yêu cầu giám định của BLTTDS năm 2015 cũng bỏ ngỏ quy định này nên không có cơ sở buộc người có yêu cầu phải có nghĩa vụ cung cấp mẫu giám định, người được yêu cầu không cung cấp mẫu để giám định thì làm sao có đủ căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Thực tiễn cho thấy, nhiều vướng mắc phát sinh xoay quanh thực hiện giám định tư pháp phục vụ công tác xét xử, cụ thể:
+Về giám định chữ ký, chữ viết, đương sự không thừa nhận chữ ký, chữ viết của mình có yêu cầu giám định thường cố tình cung cấp chữ ký “mẫu” nhiều dạng khác nhau, chữ ký cùng thời điểm với chữ ký mẫu không thu thập được hoặc thu thập không đủ… do đó cơ quan giám định từ chối…. hoặc là chỉ kết luận “Chữ ký không đồng dạng” chứ không có kết luận giám định, có những vụ án cung cấp hơn 10 mẫu chữ ký, có cả cùng thời điểm nhưng tổ chức giám định vẫn trả lời không giám định được?
+Về giám định AND, được coi là phương pháp giám định hiện đại nhất từ trước đến nay để truy nguyên cá thể. Kết luận AND là căn cứ để Thẩm phán giải quyết các vụ án truy nhận cha, mẹ cho con. Song thực tế cho thấy loại giám định này chi phí quá lớn nên các đương sự không có khả năng nên phải từ bỏ yêu cầu làm cho Tòa án rất khó khăn khi giải quyết. Mặt khác về thủ tục trưng cầu giám định AND cần lấy mẫu giám định ra sao khi người đó đã chết? Ai trực tiếp thu mẫu thì chưa có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn.
+Về giám định tư pháp trong xây dựng, những năm gần đây nhiều địa phương đẩy mạnh công tác đô thị hóa, dẫn đến có nhiều công trình với những quy mô khác nhau được triển khai xây dựng. Bên cạnh, nhiều công trình hoàn thành đạt chất lượng tốt, song cũng không ít công trình không đạt chất lượng theo yêu cầu dẫn đến phát sinh tranh chấp. Quá trình thụ lý giải quyết, Tòa án không thể tự mình đánh giá được chất lượng công trình mà rõ ràng những tranh chấp này cần đến giám định tư pháp trong xây dựng . Tức là cần phải có tổ chức giám định bằng hoạt động chuyên môn này để kiểm tra, xem xét, định giá kỹ lưỡng các vấn đề về kỹ thuật công tác khảo sát thiết kế, thi công giám sát quản lý khai thác các công trình xây dựng có liên quan trong vụ án. Nhưng khi Tòa án trưng cầu giám định thì các cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng ở địa phương thường cử đơn vị tư vấn xây dựng thực hiện, trong khi về mặt pháp lý đơn vị tư vấn xây dựng không có chức năng giám định tư pháp trong xây dựng và tổ chức giám định tư pháp trong xây dựng cũng chưa được thành lập ở nhiều địa phương, nên không chỉ Tòa án mà cả đương sự cũng gặp nhiều khó khăn.
Trong nhiều vụ việc dân sự, sự có mặt của người giám định tại phiên tòa là để bảo vệ kết luận giám định, giải thích làm rõ hơn kết luận giám định giúp cho đương sự cũng như Tòa án có cơ sở giải quyết vụ việc một cách khách quan, đúng pháp luật. Với tư cách là người tham gia tố tụng, người giám định sẽ giải thích về đối tượng giám định, quá trình giám định, phương pháp giám định để đi đến kết luận giám định. Vai trò của người giám định được thể hiện ở hai phương diện: Cung cấp chứng cứ (kết luận giám định) và tham gia tranh tụng qua việc giải thích kết luận giám định. Sự tham gia của người giám định tại phiên tòa giúp cho Thẩm phán và những người tham gia tố tụng có thể hiểu chính xác, nhất là đối với những loại hình giám định công nghệ cao đòi hỏi hệ thống tri thức mới, phức tạp. Để thuận lợi cho hoạt động của người giám định bảo vệ kết luận trước Tòa và thực thi có hiệu quả hướng dẫn tại khoản 3 Điều 102 BLTTDS năm 2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể quy định trách nhiệm của người giám định khi được Thẩm phán chủ tọa phiên tòa triệu tập.
Cuối cùng, cần cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ hơn nữa trong khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thành lập và hoạt động của Văn phòng giám định tư pháp ở các lĩnh vực tài chính, xây dựng, ngân hàng,.. Được biết, ngày 20/9/2013, UBND TP. Hồ Chí Minh đã có Quyết định số 5152/QĐ cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp về tài chính, đây là Văn phòng giám định tư pháp đầu tiên và duy nhất trong cả nước cho đến hiện tại. Tuy nhiên, hiện nay do chưa có quy định về phí giám định tư pháp hoặc hướng dẫn về cách tính chi phí giám định trong lĩnh vực tài chính, không có cơ sở pháp lý để tính, thu chi phí giám định, nên cơ quan trưng cầu chỉ chi trả theo mức tiền bồi dưỡng giám định tư pháp không phù hợp với loại hình hoạt động của Văn phòng, nên không đủ trang trải cho hoạt động của Văn phòng giám định này. Thực tế hiện nay, việc nhu cầu giám định phục vụ giải quyết án dân sự và hình sự là rất lớn, trong khi tổ chức giám định được thành lập theo quy định của pháp luật còn rất ít về số lượng, do vậy dẫn đến quá tải, kết luận giám định không kịp thời, mất nhiều thời gian của cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

ThS.LS Lê Văn Sua – Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang

[1] Điều 203. Thời hạn chuẩn bị xét xử
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.