Trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, kết luận giám định chỉ thể hiện chất thu giữ có chứa thành phần heroin hoặc chế phẩm heroin nên Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy nhiên, Viện kiểm sát lại căn cứ vào khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/TTLT ngày 14-11-2015 để trả lại hồ sơ cho Tòa án. Vậy trong trường hợp này, Tòa án có tiếp tục trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hay trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy?
Trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, nếu Kết luận giám định chỉ thể hiện chất thu giữ có chứa thành phần heroin hoặc chế phẩm heroin, nếu Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung để giám định hàm lượng chất ma túy mà Viện kiểm sát không nhận thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân; các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/TTLT ngày 14-11-2015 để trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy, làm căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự với bị cáo. Kinh phí giám định do Tòa án trưng cầu giám định chi trả.
Bàn về quy định việc giám định chất ma túy
Để tháo gỡ vấn đề này, ngày 14/11/2015 các cơ quan trung ương gồm: Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP sửa đổi một số điều của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999. Tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP quy định chỉ bắt buộc giám định hàm lượng trong những trường hợp:
“2. Sửa đổi, bổ sung tiết 1.4 mục 1 Phần I như sau:
1.4. Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Bắt buộc phải trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy trong các trường hợp sau:
a, Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch;
b, Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng;
c, Xái thuốc phiện;
d, Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”.
Ngoài các trường hợp trên, Thông tư liên tịch này còn quy định, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết thì Tòa án có quyền trực tiếp trưng cầu giám định “Ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d tiết 1.4 Mục này, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật”.
Theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội đã quy định: “1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng như sau: …
i) Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, xái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được. Đối với các trường hợp khác thì thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13″.
Tại khoản 5 Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, quy định: “5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ.;”
Ngày 03/7/2017, Tổng cục Cảnh sát – Bộ công an đã ban hành Công văn số 2101/C41-C44 Hướng dẫn giải quyết các vụ án về ma túy, trong đó đã nêu rất rõ: “Trong kết luận giám định phải xác định rõ về chất ma túy để phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự; không được kết luận “là chế phẩm Hêrôin”, “có thành phần Hêrôin” hoặc “có Hêrôin” mà phải thống nhất trả lời kết luận là “Mẫu bột/tinh thể/viên nén gửi giám định là ma túy/tiền chất, có trọng lượng (khối lượng)…gam (kilôgam) là (loại): Hêrôin (Cocain, Amphetamine, Methamphetamin, MDMA….)”.
Như vậy, với quy định rất cụ thể tại điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Thông tư liên tịch số 08/2015 /TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 và Công văn số 2101/C41-C44 ngày 03/7/2017 của Tổng cục cảnh sát đã tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc khi giải quyết án ma túy, góp phần trong việcgiải quyết các vụ án về ma túy đạt hiệu quả, đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm./.
Dịch vụ giám định – Công ty luật Dragon